Tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm cao su vào thị trường Châu Âu là rất lớn song để thâm nhập các quốc gia này, doanh nghiệp Việt phải có chứng chỉ quản lý rừng bền vững (FSC) cũng như các tiêu chuẩn về lao động, môi trường khác.
Châu Âu – thị trường còn tiềm năng
Chia sẻ tại hội thảo “Kết nối cung cầu: Hướng tới nguồn cao su thiên nhiên bền vững tại Việt Nam” ngày 4/12, ông John Heath – Giám đốc Thương mại, Phụ trách Cao su thiên nhiên của Công ty Corrie MacColl khẳng định: Hiện nay, tại châu Âu, chúng tôi đang phân phối mỗi tháng khoảng 500 tấn mủ nước và cao su được chứng nhận. Dù sản lượng chỉ chiếm thị phần nhỏ, nhưng tiềm năng vẫn còn rất lớn.
Theo ông John Heath, thị trường châu Âu hiện đang dành nhiều sự quan tâm đến cao su có chứng chỉ FSC. Tất nhiên, sự quan tâm này không thể chuyển thành nhu cầu thực tế hay sản lượng tiêu thụ, nhưng cho đến khi có thêm nguồn cung, rất nhiều đơn vị tiêu thụ đã cam kết sẽ mua cao su có chứng chỉ FSC ngay khi sản phẩm được chứng nhận có mặt trên thị trường. Ông John Heath hi vọng sẽ có thêm 16.000 tấn cao su thiên nhiên (CSTN) được chứng nhận vào năm 2020.
Sở dĩ các doanh nghiệp nhập khẩu CSTN như Corrie MacColl quan tâm đến những sản phẩm đạt chứng chỉ FSC là do bền vững là chủ đề sôi nổi tại các quốc gia Châu Âu nhiều năm nay. Riêng với ngành CSTN đồng thời cũng gây chú ý đến chính quyền, tổ chức phi chính phủ (NGOs) và người tiêu dùng, vì có thông tin tiêu cực cho rằng ngành này đang tồn tại một số vấn đề về quyền con người (chiếm đoạt đất, ngược đãi lao động nhập cư, thuê lao động trẻ em, trả lương thấp…) và về môi trường (phá rừng, gây tổn thất đa dạng sinh học…).
Đây cũng là lý do việc gia tăng tham gia của luật pháp EU về lĩnh vực bền vững nhằm buộc các công ty phải chịu trách nhiệm trong phạm vi thẩm quyền của châu Âu về vi phạm nhân quyền ở bất kỳ đâu trong chuỗi cung ứng CSTN, ngay cả khi vi phạm đó vượt quyền kiểm soát hoặc hiểu biết của họ. Cụ thể ở Thụy Sĩ có sáng kiến “Konzern-verantwortungsinitiative” – Sáng kiến doanh nghiệp có trách nhiệm” ràng buộc các công ty nước này phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu có hành vi vi phạm quyền con người hoặc có hoạt động kinh doanh gây thiệt hại đến môi trường dù ở bất kỳ đâu trên thế giới.
Tại Đức cũng dự kiến sẽ sớm ban hành luật thẩm tra nhân quyền bắt buộc – Luật Chuỗi cung ứng – Lieferkettengesetz. Theo đó, các công ty đã đăng ký tại Đức với quy mô nhất định phải chịu trách nhiệm trực tiếp nếu có hành vi lạm dụng trong chuỗi cung ứng.
Ngoài áp lực từ pháp luật, sức ép ngày càng tăng và có tính cộng hưởng, đến từ tổ chức xã hội dân sự, NGOs, người tiêu dùng và phương tiện truyền thông, buộc các công ty phải chịu hoàn toàn trách nhiệm cho toàn chuỗi cung ứng của họ.
“Trước những yêu cầu này, nhiều công ty, bao gồm chúng tôi, chỉ có mục tiêu đơn giản là muốn “làm đúng”. Chúng tôi không muốn uy tín của mình bị gắn với với lao động trẻ em hoặc các vi phạm quyền con người khác trong chuỗi cung ứng CSTN; chúng tôi không muốn thu mua cao su từ khách hàng chặt phá rừng nhiệt đới nguyên sinh để trồng cao su”- ông John Heath nêu quan điểm.
Chủ động đáp ứng các tiêu chí bền vững cho cao su
Mặc dù thị trường Châu Âu được xem là có tiềm năng đối với cao su Việt Nam, tuy nhiên khả năng xâm nhập của ngành này tại Châu Âu rất hạn chế. Điều này xuất phát từ nhu cầu của thị trường cần các chủng loại cao su cao cấp (SVR CV) và chủng loại SVR 10, SVR 20, đó là chưa kể doanh nghiệp xuất khẩu phải đáp ứng chứng chỉ rừng FSC.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong tổng sản lượng xuất khẩu 907.944 tấn cao su với giá trị 1,16 tỷ USD 8 tháng đầu năm nay, thì thị trường Châu Âu chỉ chiếm rất nhỏ với sản lượng trên 36 ngàn tấn, trị giá trên 48 triệu USD. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là doanh nghiệp ngành ít quan tâm hơn đến thị trường Châu Âu cũng như đáp ứng chứng chỉ FSC.
Trên thực tế tại Việt Nam từ nhiều năm qua ngành cao su đã có những hoạt động để thúc đẩy phát triển bền vững cho các sản phẩm từ cao su, từ đó nâng cao giá trị cao su xuất khẩu. Cụ thể, theo Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA), ngành đã đưa ra các hoạt động như xây dựng thương hiệu ngành cao su Việt Nam; Xây dựng hướng dẫn quản lý sản xuất CSTN bền vững; Tăng cường trao đổi thông tin thị trường, xúc tiến thương mại; Giới thiệu mô hình sản xuất cao su bền vững và có trách nhiệm… VRA cũng thực hiện quảng bá rộng rãi “Nhãn hiệu chứng nhận “Cao su Việt Nam” và hỗ trợ hội viên tuân thủ Hệ thống chứng chỉ rừng quốc gia (VFCS) cũng như tích cực gia tăng nhận thức về phát triển bền vững và có trách nhiệm cho doanh nghiệp.
Riêng với những sản phẩm đạt chứng chỉ FSC, VRA đã khuyến cáo các hội viên một số nguyên tắc như: Tuân thủ theo pháp luật và các nguyên tắc nội bộ của FSC; Tuân thủ quyền – trách nhiệm đối với với việc sử dụng và sở hữu; Mối quan hệ cộng đồng và quyền của người lao động; Các lợi ích từ rừng; Tác động về môi trường…
Về phía Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG), theo ông Huỳnh Tấn Siêu – Trưởng Ban Công nghiệp VRG, hiện tại VRG đang triển khai hoạt động tái kết nối hướng đến chứng chỉ rừng FSC và đã làm việc với Hội đồng Quản lý Rừng để cùng xây dựng, thực hiện Lộ trình tái kết nối trong năm 2020 – 2021. Bên cạnh đó, để phát triển bền vững các vùng cao su và đáp ứng yêu cầu của chứng chỉ rừng quốc tế, Tập đoàn đã cho khảo sát, điều tra diện tích có khả năng phục hồi rừng với cây bản địa và cây gỗ lớn tại các công ty cao su trong nước cũng như tại Campuchia và Lào. Tập đoàn cũng tiếp tục thực hiện đầu tư an sinh xã hội, ưu tiên cho các dự án tại Campuchia và Lào với kế hoạch phù hợp…
Theo Báo Công Thương